Quan Đông (
tiếng Nhật: 関東州;
rōmaji: Kantōshū;
phiên âm Hán-Việt: Quan Đông châu,
tiếng Trung: 關東州;
bính âm: Guāndōng zhōu) là tô giới
[1] của
Nhật Bản trên lãnh thổ
Trung Quốc từ năm
1905 đến năm
1945. Ở Trung Quốc, vùng phía ngoài
Vạn lý trường thành và ở phía Đông của
Sơn Hải quan, nghĩa là toàn thể vùng
Mãn Châu (vùng
Đông Bắc Trung Quốc ngày nay) được gọi là Quan Đông. Khi thua trong
Chiến tranh Thanh-Nhật, nhà Thanh đã phải nhượng vùng Đông Bắc này cho Nhật thuê. Tuy nhiên,
Đế quốc Nga với sự ủng hộ của
Pháp và
Anh đã ép được Nhật Bản phải nhường
bán đảo Liêu Đông cho Nga. Năm
1905, Nhật Bản giành chiến thắng trong
Chiến tranh Nga-Nhật. Căn cứ
Điều ước Portsmouth, Nhật Bản tiếp nhận từ
Đế quốc Nga toàn bộ vùng phía Bắc
bán đảo Liêu Đông và
Vùng Đường sắt Mãn Châu, gộp lại với phần giành được từ trước thành Châu Quan Đông.Sau khi nhận về từ tay Nga, Nhật Bản tổ chức một bộ máy chính quyền quân sự để quản lý vùng Quan Đông. Từ năm 1906,
Phủ Đô hộ Quan Đông được thành lập làm chính quyền dân sự thay thế chính quyền quân sự. Tuy nhiên, ban đầu Phủ Độ hộ này vẫn gồm
Quân Quan Đông. Mãi đến năm 1919, Quân Quan Đông mới tách riêng ra, và Phủ này đổi thành Sảnh Quan Đông, rồi thành Cục Quan Đông.Năm
1915, Nhật Bản và
Trung Hoa Dân Quốc thành lập một điều ước theo đó Nhật Bản được thuê Quan Đông đến năm
1997. Đến năm
1932, Quan Đông trở thành một bộ phận của
Mãn Châu Quốc và xem như là đất Nhật Bản thuê của Mãn Châu Quốc. Năm
1937, Khu vực Đường sắt Mãn Châu được Nhật Bản trả cho chính quyền Mãn Châu. Năm 1945, căn cứ
Tuyên bố Potsdam, Nhật Bản giao Quan Đông lại cho Trung Hoa Dân Quốc.Theo một
điều tra dân số do Nhật Bản tiến hành, vào năm
1935, Quan Đông có dân số là 1.034.074 người. Trong đó,
người Nhật có 168.185 người, người Mãn Châu Quốc là 983.675 người. Các con số này không bao gồm số quân của Quân Quan Đông.Trong Quan Đông có cảng biển
Lữ Thuận là một cảng lớn.